Vài cảm nhận về đoạn thơ đầu trong bài Tây Tiến của Quang Dũng

 


        Kết cấu bài thơ theo logic của dòng liên tưởng từ hiện tại nhớ về hoài niệm sau đó lại trở về với thực tại. Nỗi nhớ là cảm xúc bao trùm, xuyên suốt bài thơ, là một cảm hứng chủ đạo. Quang Dũng đã nhớ rất nhiều đó là những nơi đã đi qua, những nghiệt ngã, khó khăn của đời lính. Nổi bật nhất là hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân, trong những phút nghỉ ngơi, sinh hoạt, những kỷ niệm ngọt ngào, trong chiến đấu đấu và trong cả sự hi sinh.

      Nói tới nỗi nhớ, đó là một cảm xúc đặc biệt của con người khi lắng nghe những rung động của lòng mình một cách chân thật với những miền đất đã đi qua với cuộc sống, với con người đã gặp. Đặc biệt là với nhà thơ thì nỗi nhớ càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Đến với văn học cách mạng nỗi nhớ không đơn thuần chỉ có ở tình yêu đôi lứa mà trở thành sự gắn bó máu thịt của con người với tổ quốc, với đồng đội, với chiến trường. Nếu nhà thơ Tố Hữu nhớ thiết tha về một Việt Bắc:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

 Nhà thơ Lan Viên viết:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”

 với nhà thơ Quang Dũng Dũng, cảm xúc trong toàn bộ bài thơ chính là “nỗi nhớ chơi vơi”. Vì vậy mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã đưa người đọc trở về với kỷ niệm và sống trọn một thời Tây Tiến:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

      Hai câu thơ là nỗi nhớ trải dài cả về không gian núi rừng và thời gian hoài niệm về một thời Tây Tiến. Đối tượng của nỗi nhớ là hình ảnh con sông Mã và đoàn quân Tây Tiến là núi rừng miền Tây, là những nơi đã đi qua với bao kỉ niệm sâu nặng khó phai mờ. Trước hết, Quang Dũng là một người lính, vì vậy dù đã xa đơn vị cũ nhưng những kỉ niệm lại rất gần. Cho nên cảm xúc đã bật lên thành tiếng gọi tên những địa danh, tên đơn vị như gọi những người thân yêu của mình. Một sông Mã xa rồi đầy hoài niệm trong hai tiếng xa rồi.

      Hình ảnh con sông Mã không đơn thuần là một địa danh hay  một dòng chảy vô hồn mà nó trở thành một một nhân chứng lịch sử, gắn với cuộc hành quân của người lính và dấu ấn trong cuộc đời của người lính với bao buồn vui, được mất. Vì vậy sông Mã đã trở thành một miền nhớ xa xôi của tác giả. Một Tây Tiến ơi đầy da diết.

       Hai tiếng Tây Tiến không chỉ để gọi tên đơn vị mà với tác giả nó lại là cái tên thân thiết, một người bạn tri âm để gọi để nhớ thiết tha, để giãi bày tâm sự. Câu thơ kết thúc bằng một tiếng “ơi” và dấu chấm than tạo nên âm vang da diết. Đó cũng chính là tiếng lòng của nhà thơ khi rời xa đơn vị và những gì mình gắn bó nhất.

      Nỗi nhớ mang âm hưởng “chơi vơi”. Từ chơi vơi gợi cho người đọc một nỗi nhớ đong đầy da diết. Nó vừa lên chập chờn, tràn đầy, bồng bềnh vừa dàn trải,vừa hụt hẫng. Nỗi nhớ chơi vơi là một nỗi nhớ lạ lùng.  Nó vừa mênh mông vừa chất chứa bao nỗi niềm da diết. Qua đó, ta thấy được tình cảm của nhà thơ rất chân thành, sâu nặng. xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ thì nỗi nhớ ấy mới bộc lộ cho nên nên nỗi nhớ đã trở thành một cảm hứng chủ đạo từ con sông Mã đến hình ảnh Tây Tiến chảy tràn như một cơn thác lũ trong tâm trí nhà thơ để ông mở cửa sổ tâm hồn lãng mạn cho nỗi nhớ trào dâng, lan tỏa như vậy.    

     Đến với bức tranh thiên nhiên Tây Bắc cũng chính là đến với chiến trường miền Tây, đến với cuộc hành quân của người lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là địa hình núi cao, dốc sâu, vực thẳm,rừng dày. Nó gắn liền với những gian khổ, nhọc nhằn của đoàn quân Tây Tiến. Khi chìm đắm trong sương mù, khi thì đèo lại đèo khúc khuỷu, gập ghềnh, khi hun hút giữa biển mây trời, khi thì ở độ cao trời ngang tầm súng…Tất cả đều gắn với những địa danh mà mỗi khi nhắc tới là cả một vùng ký ức sâu đậm. Đó là những nơi đầy xa lạ, mênh mông, rộng lớn, nó xa ngái với những chàng trai ở đất Hà Thành. Vì đây là lần đầu tiên họ đặt chân đến, cũng là nơi họ đi qua, dừng chân, là nơi gian khổ và cũng là nơi có thể “bỏ quên đời”. Tâm hồn người lính cũng rất trẻ trung bay bổng gắn liền với sự tinh nghịch mang đậm chất lính đặc biệt là những tình cảm gắn bó thiết tha với thiên nhiên với con người

       Trong nỗi nhớ nhà thơ, thiên nhiên Tây Bắc trước hết là bức tranh hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

Đến với Sài Khao là đến với khí hậu khắc nghiệt, “sương lấp đoàn quân”. Câu thơ vang lên khi nhớ về đêm dài hành quân của người lính. Họ đi trong những đêm sương dày đặc, lạnh lẽo, che lấp, tưởng như không thấy mặt người. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên viết::

“Nhớ bản sương giăng nhớ Đèo Mây Phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương.”

Hay nhà thơ chính Hữu viết:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

       Có thể thấy thiên nhiên khắc nghiệt đã trở thành một ký ức khó phai mờ đối với nhà thơ và cũng chính vì vậy cái mệt mỏi của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ qua đi cùng những năm tháng. Cả câu thơ như chùng xuống trong sự mệt mỏi, khó nhọc của cả một đoàn quân

       Đến với thiên nhiên và chiến trường miền Tây ta còn bắt gặp một bức tranh hết sức thơ mộng và trữ tình. Người lính hành quân trong chặng đường gian khổ mệt mỏi nhưng khi đến với Mường Lát là một vùng đất bạt ngàn hoa. Tác giả đã không viết là hoa nở trong đêm sương mà “hoa về trong đêm hơi”. Vì vậy mà thiên nhiên mang một vẻ đẹp lãng mạn tạo nên một thế giới huyền ảo, mờ hơi sương, bồng bềnh tràn vào tâm hồn, một thế giới bồng bềnh trong tâm hồn của người lính.

     Đến với chiến trường miền Tây là đến với thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

      Bốn câu thơ đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật hết sức độc đáo. Cách sử dụng từ ngữ của tác giả giàu giá trị tạo hình với những từ ghép, từ láy như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước, gặp ghềnh… Nó được kết hợp liên tiếp, nối đuôi nhau, liên tiếp để diễn đạt được sự gian nan, trùng điệp, sự hiểm trở ở bởi độ cao của đèo, của núi, sự heo hút của dốc núi, độ cao của tầng mây. Vì vậy, người đọc như có một cảm giác choáng ngợp giữa cái mênh mông cao rộng hùng vĩ và dữ dội ấy. Mặt khác, thủ pháp nghệ thuật đối đã sử dụng một cách triệt để tạo nên độ cao dựng đứng giữa hai sườn núi và sự phân định rạch ròi giữa hai đường lên xuống, tạo nên những cung đường đối lập, vượt núi đã khó khăn nhưng xuống dốc lại còn khó khăn hơn. Âm điệu của đoạn thơ là vần bằng kết hợp với những câu thơ có nhiều thanh trắc trở nên sự trắc trở, trập trùng mạnh mẽ,đầy gân guốc nhưng lại rất mềm mại bởi những vần thơ thanh bằng đan xen…

     Có thể nói, bốn câu thơ kết hợp với nhiều thủ pháp khác nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Có những câu thơ gân guốc, có những câu thơ mềm mại, bồng bềnh, trong cái mạnh mẽ lại có sự dịu dàng trong gam màu nóng này có gam màu lạnh nó như một bức tranh anh Sừng sững mạnh mẽ vẽ nhưng lại giống như một bức tranh thủy mặc học tài tình. Nó vừa tạo nên một bức tranh hiểm trở, dữ dội nhưng không kém phần bay bổng. Qua đó, có thể thấy thơ của Quang Dũng không chỉ tràn đầy chất thơ mà còn có cả chất họa.

     Sau những chặng đường vượt núi băng rừng, người lính đã dừng chân nghỉ ngơi ở lưng đèo, phóng tầm mắt ra xa và thả hồn mình ở lưng chừng núi, trong những màn mưa của núi rừng với một vài ngôi nhà lưng núi. Cách sử dụng thanh bằng trong toàn bộ câu thơ tạo nên một cảm giác nhẹ nhàng bay bổng, lâng lâng như chưa hề có một cuộc hành quân gian khổ đi qua.

      Tóm lại sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ đó là vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội của núi rừng miền Tây qua đó làm bật lên chặng đường hành quân gian khổ hào hùng qua bút pháp lãng mạn và thủ pháp nghệ thuật độc đáo tạo nên chất nhạc, chất họa những câu thơ gân guốc với những câu thơ mềm mại, mảnh mai

      Khám phá của nhà thơ trong sự bát ngát muôn trùng của núi cao vực thẳm thiên nhiên Tây Bắc còn mang vẻ đẹp hoang dại dữ dội và đầy nguy hiểm, huyền bí:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

       Hai câu thơ đã gợi lên một vẻ bí hiểm, hoang sơ, nguyên thủy bởi sự oai linh của thác nước giữa đại ngàn như đường thẳng, âm vang, gầm thét, oai linh của rừng thẳm, bởi Mường Hịch “cọp trêu người”. Cách sử dụng của nhà thơ thơ gợi lên một cảm giác các như tiếng chân cọp,vị chúa sơn lâm đi từ trong đêm, nơi rừng sâu.  Qua đó Quang Dũng đã làm nổi bật lên cái rờn rợn, hoang sơ, nguyên thủy. Thiên nhiên như bao trùm lấy con người, cái hoang vu, sự nguy hiểm và cái chết luôn luôn kề cận người lính trên bước đường hành quân. Mặt khác câu thơ còn cho thấy đoàn quân Tây Tiến đã hoạt động và hành quân trong những địa hình hình như vậy, dấu chân nhọc nhằn của họ in trên chiến trường và để lại dấu tích trầm lặng và kiêu hùng nơi đây với bao sự tàn khóc, dữ dội dù không có tiếng súng dù chưa thấy bóng dáng quân thù

      Tóm lại, đến với thiên nhiên miền Tây là đến với một bức tranh sinh động giàu chất nhạc họa. Nó vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình. Nó trở thành một phông nền lớn để tôn vinh người lính trong cuộc hành quân, là môi trường để thử thách và để tâm hồn của người lính được bộc lộ chất hào hoa. Cuộc hành quân của người lính Tây Tiến mà phông nền chính là thiên nhiên Tây Bắc Có lẽ vì thế thế mà cuộc hành quân của họ vô cùng khó khăn và gian khổ đã làm bật lên vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp vượt lên trên hoàn cảnh và chiến thắng bản thân mình để chiến đấu với kẻ thù.

 

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã bình luận!

Mới hơn Cũ hơn