Phân tích đoạn thơ thư 2 trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

 TÂY TIẾN

Đề bài:  Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

………………………………………..

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

     (Trích Tây Tiến – Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2010)



     1. Nói tới Quang Dũng là nói tới một nghệ sĩ đa tài nhưng trước hết ông là một nhà thơ với hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến, bài thơ ra đời vào năm 1948, in trong tập “Mây đầu ô”. Đây là một kiệt tác của đời thơ Quang Dũng và cũng là bài thơ xuất sắc của thơ ca thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ghi lại kỉ niệm hào hùng của đoàn quân có nhiệm vụ phối họp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới, đánh tiêu hao quân đội Pháp. Cảm xúc bao trùm của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết về thiên nhiên, chiến trường miền Tây hùng vĩ dữ dội, thơ mộng trữ tình và hình ảnh những chiến binh Tây Tiến hào hùng vượt lên mọi gian khổ nhưng tâm hồn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ của người nghệ sĩ hào hoa. Một trong những kỉ niệm ngọt ngào mà tác giả gửi vào một giọng thơ say đắm, nhớ nhung thiết tha, đó là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

 Kìa em xiêm áo tự bao giờ 

 Khèn lên man điệu nàng e ấp

 Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

     2. Nếu như trong đoạn thơ đầu nhà thơ khắc họa về cuộc hành quân của người lính Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ, mất mát. Có những chiến binh "dãi dầu không bước nữa", "gục lên súng mũ" và thầm lặng hi sinh "bỏ quên đời" bởi những hiểm trở của dốc cao, vực thẳm, sương dày, chốn rừng thiêng nước độc đầy hiểm nguy rình rập, sự dãi dầu của mưa nắng, bệnh tật... thử thách ý chí người chiến binh thì đến đây tâm hồn của người lính rất trẻ trung bay bổng gắn liền với những tình cảm gắn bó thiết tha với con người, thấm đẫm tình quân dân trong buổi liên hoan văn nghệ với đồng bào. 

-  Ấn tượng nhất trong đoạn thơ là không khí của một ngày hội. Nó vừa gắn liền với văn hóa tinh thần của đồng bào vừa hòa hợp với sinh hoạt văn hóa văn nghệ của bộ đội. Những người lính có tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hoà nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy chất thơ cùng nhân dân. Đó là những giờ phút tâm hồn thăng hoa theo tiếng khèn, tiếng nhạc, theo những vũ điệu của những thiếu nữ trong đêm hội đuốc hoa. 

-  “Doanh trại”, nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và chung vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Đêm liên hoan trở thành đêm hội đuốc hoa. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn). Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan: “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Ở đây, nhà thơ viết đêm liên hoan rừng núi trở thành đêm hội, “hội đuốc hoa” là cách nói đẹp đẽ và lãng mạn gợi không khí ấm cúng, thân mật, tràn đầy niềm vui, hạnh phúc. Trong lòng các chiến sĩ, họ như sống trong bầu không khí đăm say của tình yêu, hạnh phúc, trong đám cưới hân hoan, trong từng bừng của đêm lễ hội. 

- Chỉ một chữ “bừng” trong câu thơ khiến cả không gian tràn ngập ánh sáng, ánh sáng của đuốc hoa, ánh sáng của ngọn lửa hồng doanh trại, không khí tưng từng của tiếng cười nói rộn rã, là sự bừng sáng trong tâm hồn, là niềm vui rạng rỡ trong đêm hội đuốc hoa, gợi cảm giác ấm áp, hân hoan, lan tỏa. 

- Hồn thơ Quang Dũng và tâm hồn người lính càng lúc càng say đắm với cảm xúc dào dạt, phấn chấn. Tiếng “Kìa” trong câu thơ đã thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, cả một niềm thích thú, một tiếng trầm trồ, ngưỡng mộ của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp đầy quyến rũ từ người con gái miền sơn cước. Hình ảnh “em” với xiêm áo đang chuẩn bị vào đêm vũ hội mà vẻ đẹp đẽ, lộng lẫy như bước ra từ huyền thoại. Trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của con người Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của người thiếu nữ vùng cao, trẻ trung, xinh đẹp và lộng lẫy.

- Trong âm vang ngày hội núi rừng, hòa quyện trong âm thanh của tiếng khèn, tiếng nhạc “man điệu”- một điệu nhạc “lạ” đầy man dại, tư do, phóng khoáng- là đặc trưng văn hoá của người dân tộc miền núi Tây Bắc. Nhưng quyến rũ hơn cả chính là hình ảnh “em”, cô thiếu nữ vùng cao đã trở thành hạt nhân, tâm điểm của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Vẻ đẹp của người thiếu nữ hiện lên qua những điệu múa vừa man dại vừa phóng khoáng, vừa rộn ràng, uyển chuyển vừa tràn đầy sức sống, vừa tình tứ, e ấp, vừa duyên dáng, đáng yêu. Vẻ đẹp đó khiến tâm hồn người lính như ngất ngây trước vẻ đẹp con người, say đắm trong những điệu nhảy và thả hồn trong không gian văn hóa và cả thiên nhiên mênh mông của núi rừng Tây Bắc. 

- Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp yêu kiều của các cô gái mà nhà thơ gọi bằng “ em”, bằng cả niềm tình yêu, niềm say đắm đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục, từ điệu múa đến nét đẹp trong tâm hồn. Họ là những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng quyến rũ và đôi mắt đa tình của chàng chiến binh dõi theo dáng điệu "nàng e ấp" và lắng nghe âm nhạc của xứ lạ để rồi tâm hồn bay bổng theo thơ và nhạc và mang theo trong nỗi nhớ về miền xa xôi: "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

- Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, mọi vất vả đều tan biến, phút chốc bao nhiêu gian khổ, nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch, để chỉ còn tràn ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng, xao xuyến và những rung động đầy chất thơ. Thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ, nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành quân. Những cô gái đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ để họ ôm ấp bao mơ mơ, chắp cánh cho mộng ước xa xôi, về một giấc mơ ngọt ngào. Có thể, đó là những khao khát về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Vì vậy hình ảnh “xây hồn thơ” là nỗi nhớ thiết tha trongtâm hồn. 

    3. Đoạn thơ là những kỷ niệm về tình quân dân trong đêm hội đuốc hoa tràn đây âm thanh, ánh sáng, từ ngữ và hình ảnh lãng mạn bay bổng và tràn đầy cảm xúc thiết tha. Qua đó, ta thấy tâm hồn trẻ trung, yêu đời, tràn đầy cảm xúc lãng mạn, khao khát, đắm say, đa cảm, đa tình của người lính Tây Tiến. Người chiến binh đã chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm  súng chiến đấu dù gian khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét  rất cơ bản trong cốt cách của những chàng trai Hà thành .Vì vậy, những kỷ niệm không thể phai mờ trong tâm trí nhà thơ và nỗi nhớ vì thế mà chơi vơi, da diết như chính nhà thơ đã viết “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.



4. Phân tích bức tranh thiên nhiên chiều Châu Mộc

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2010)

     So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương giăng mắc. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo với những hình ảnh nhẹ nhàng, vừa thực vừa mộng, thi vị buồn

-  Hoàn cảnh: Người đi Châu Mộc trong một buổi chiều sương giăng mắc. Đó là khung cảnh chia tay trên nền thiên nhiên sông nước của người lính Tây Tiến. Hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương giăng hay sương phủ. Nó không giống với buổi chiều ở Mường Lát, không khắc nghiệt như ở Sài Khao “Sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “chiều sương ấy''.  

    + “Chiều sương ấy'' đã tạo nên bức tranh vừa rất thực vì người lính đã đi qua trong một buổi chiều hành quân nhưng lại rất mơ hồ và huyền ảo, vô định vì “chiều ấy” là thời gian không xác định được cụ thể chính xác là chiều nào. Cho nên, câu thơ nhuốm màu sương khói mênh mang, màu của của ký ức xa xăm. 

    + “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” vừa gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng.

- Hình ảnh hồn lau nẻo bến bờ. 

 + Đó là những kỷ niệm của nhà thơ về “bờ lau” và “bến bờ” của dòng sông. “Nẻo” có nghĩa– lối đi. “Nẻo bến bờ” là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử. Màn sương lãng đãng hoà vào ngàn lau san sát bên triền sông, trên sườn núi. Hoa lau trắng xóa, lả tả bay theo gió chiều làm nên vẻ đẹp đơn sơ mà lộng lẫy. Đây là nét đặc trưng của thiên nhiên Châu Mộc. 

+ Tác giả diễn tả cảnh vật hết sức độc đáo, cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ''hồn lau''. Cái tài của nhà thơ là không dùng ngàn lau mà dùng “hồn lau”. Chỉ thay đổi có một từ mà làm cho bức tranh sinh động, những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn gợi lên cái hồn túy của cảnh vật, vừa chập chờn, ẩn hiện, phảng phất, mơ màng vừa mang vẻ đẹp của tiềm thức hồn người. Cảnh vật vừa tĩnh lặng, vừa thi vị, giàu chất thơ, cảm giác hoang vắng lắng sâu gợi buồn, vừa có chút gì đó thiêng liêng của tâm linh núi rừng. Nó đánh thức, lay động nỗi niềm của con người. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy. 

+ Vì vậy đến với thiên nhiên Châu Mộc là đến với hồn cảnh vật và ẩn sau đó phảng phất một nỗi niềm lưu luyến, bâng khuâng. Câu thơ rất nhẹ nhàng, tinh tế, tình cảm lắng sâu. Nó vừa thơ mộng lãng mạn lại vừa mang những nét tinh túy gợi cảm của Đường thi làm nên bức tranh chiều sương Châu Mộc gợi cảm đọng mãi trong tâm hồn và rung lên bao nỗi niềm. Quang Dũng như muốn gọi ai đó cùng chia sẻ nỗi đắm say trước một vẻ đẹp. Vẻ đẹp ấy chưa có ai đặt tên nay Quang Dũng gọi nó là “chiều sương” Châu Mộc và “hồn lau nẻo bến bờ” làm thành hồn của thiên nhiên Châu Mộc. 

- Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng nổi bật lên hình ảnh con người trên chiếc thuyền độc mộc (là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài) trôi theo dòng nước lũ. 

 + Đó là hình ảnh quen thuộc của đồng bào vừa mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường giữa dòng nước lũ của thiên nhiên Tây Bắc hay dáng hình mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông 

+ nhưng sự chuyển động trên cái nền im lặng, ấy lại gợi thêm vẻ đơn chiếc, xa vắng, mênh mông. Cái thi vị ở chỗ nhà thơ đã nhớ đến một “dáng hình” ai đó để gợi nhớ gợi thương, để xao động và nhớ nhung. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi về dáng hình đẹp đẽ của con người Tây Bắc.

- Đặc biệt khép lại đoạn thơ là những bông hoa rừng đang đong đưa, tạo thêm một nốt đẹp cho bức tranh Châu Mộc và dấu ấn trong kỷ niệm của người đi. 

+ Hình ảnh “hoa đong đưa” mang lại cho người đọc nhiều cảm nhận rất thi vị. Tác giả không viết "đung đưa" hay “ đu đưa” vì những từ này chỉ gợi lên chuyển động có tính chất vật lí; còn "đong đưa" được sử dụng rất gợi cảm, nó gợi lên bao nhiêu đong đưa, tình tứ, vẻ đẹp duyên dáng thơ mộng trữ tình và quyến luyến con người như vẫy chào, tiễn người lính vượt sông. Đó cũng chính là nét duyên dáng thiên nhiên Châu Mộc trong cặp mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến. + Cũng có thể,  gắn với hình ảnh con người ở câu thơ trên thì phải chăng hoa lại là chính dáng hình của người con gái Tây Bắc. Nhà thơ nhớ dáng, nhớ hình, nhớ những nét mềm mại, uyển chuyển, tình tứ, duyên dáng của người con gái Tây Bắc trên thuyền độc mộc. Dù hiểu theo cách nào thì đều là những vần thơ đẹp, rất đỗi thơ mộng, đằm thắm ân tình.

    Có thể nói, đoạn thơ là những kỷ niệm của người đi trong một buổi chiều sương vô định nhớ về cảnh và người trong một buổi chiều sương vô hình. Đây cũng là bức tranh trong tâm tưởng Quang Dũng đầy sức biểu hiện, bố cục hài hoà; có nét mờ nét đậm, mảng tối mảng sáng, có gần có xa, có động có tĩnh. Những câu thơ với nét chấm phá rất mảnh mai, mềm mại, tinh tế, vừa lãng mạn vừa cổ điển, chứa nhiều cảm xúc hiện đại với ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh gợi cảm và quan trọng nhất, mọi vật đều như có linh hồn.

      Bốn câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp tình tứ, duyên dáng thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp, gợi hồn, gợi buồn man mác, bâng khuâng.. Đây là đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn người chiến binh Tây Tiến và bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng. Nó cũng để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành nỗi nhớ kỷ niệm thiết tha và cảm hứng lãng mạn. Nó thể hiện quy luật tình cảm của con người. Mỗi vùng đất đã đi qua, những con người đã gặp sẽ trở thành những dấu ấn không thể phai mờ và một phần sự sống của tâm hồn như nhà thơ  như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”


Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã bình luận!

Mới hơn Cũ hơn